Các ấn bản hiện hành Đại_Việt_sử_ký_toàn_thư

Nội các quan bản

Năm 1904, Léopold Michel CadièrePaul Pelliot đã giới thiệu Đại Việt sử ký toàn thư bản Quốc Tử Giám Huế và cho biết gần đó họ đã tìm thấy một bản in sớm hơn với ván in tốt hơn, cách chia quyển giữa các phần có khác hơn nhưng bản in này lại không được đầy đủ.[28] Phan Huy Lê đoán định bản in Quốc Tử Giám Huế có lẽ là bản in đời Nguyễn, còn bản in sớm hơn thì không biết có phải bản Chính Hòa không vì tác giả không chứng minh.[29]

Năm 1934, trong sách Thư mục Việt Nam (Bibliographie annamite) nổi tiếng, nhà thư mục học Việt Nam người Pháp và thành viên Viện Viễn Đông Bác cổ, Emile Gaspardone nhân khảo cứu về sách Đại Việt sử ký toàn thư, cho biết rằng: "Còn có một bản in cổ, rất hiếm, bằng ván in của Nội các (Nội các quan bản) do thợ Liễu Chàng khắc (tử nhân Hồng Lục, Liễu Chàng đẳng xã nhân phụng san). Nó được phân biệt với những bản khắc bởi chữ đẹp và không kiêng húy tên vua triều Nguyễn hay các triều khác".[30] Nhà sử học Phan Huy Lê cho rằng bản in mà Gaspardone đã nói đến chính là Đại Việt sử ký toàn thư bản Nội các quan bản.[29]

Khoảng năm 1979, nhà nghiên cứu Hán Nôm Tạ Trọng Hiệp tìm thấy trong thư viện riêng của nhà Đông phương học và cũng là thầy giáo của ông, Paul Demiéville, bộ sách Đại Việt sử ký toàn thư bản Nội các quan bản. Cùng dịp đó, nhà sử học Trần Kinh Hòa đến Paris, nói chuyện với Demiéville và được ông cho mượn bản Nội các quan bản ấy để sao chụp và khảo sát. Kết quả nghiên cứu của Trần Kinh Hòa được công bố trong bài viết Đại Việt sử ký toàn thư chi soạn tu dữ truyền bản. Ông xác nhận đây là bản in Đại Việt sử ký toàn thư năm Chính Hòa thứ 18 tức là năm 1697 nhưng không chứng minh.[29]

Sau khi Paul Demiéville qua đời vào ngày 23 tháng 3 năm 1979, thư viện riêng của ông, trong đó có bản Nội các quan bản, trở thành tài sản thuộc quyền sở hữu của thư viện Hội Á Châu (Société Asiatique), nhưng chưa được đưa ra phục vụ công chúng. Năm 1981, nhà sử học Phan Huy Lê, nhân dịp đi công tác sang Pháp theo lời mời của trường Đại học Paris VII, đã đề xuất nguyện vọng nghiên cứu bản Nội các quan bản và được Hội Á Châu chấp thuận như một trường hợp đặc biệt[31]. Cùng xem và nghiên cứu với Phan Huy Lê lúc đó, như ông tự thuật, gồm có Hoàng Xuân Hãn, Tạ Trọng Hiệp và một số nhà sử học khác.[31] Khi trở về Việt Nam, Phan Huy Lê mang theo bản sao chụp (photocopy) đen trắng bản Nội các quan bản và báo cáo lên Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam rằng đã phát hiện đã bản in xưa nhất của bộ Đại Việt sử ký toàn thư in năm 1697, đề nghị cho tổ chức nghiên cứu, phiên dịch và xuất bản. Một Hội đồng khoa học đã được Ủy ban cử ra, với Nguyễn Khánh Toàn làm Chủ tịch và hai ủy viên là Phan Huy LêPhạm Hựu, giám đốc nhà xuất bản Khoa học xã hội lúc đó (sau, Phạm Hựu nghỉ hưu, người thay thế ông ở cương vị này là tân Tổng biên tập nhà xuất bản Khoa học xã hội Nguyễn Đức Diệu). Hội đồng kết luận bộ sách Đại Việt sử ký toàn thư bản in Nội các quan bản này chính là bản in lần đầu tiên của bộ quốc sử vào năm Chính Hòa thứ 18 (1697).

Đặc điểm văn bản

Đại Việt sử ký toàn thư

Đại Việt sử ký toàn thư bản Nội các quan bản hiện lưu trữ ở Paris vốn đóng theo lối bìa phất cậy nhưng sau khi cho Trần Kinh Hòa mượn để nghiên cứu, Paul Demiéville đã cho phép ông Trần tháo ra, lót thêm một tờ giấy trắng mỏng vào giữa hai mặt của mỗi tờ để gia cố và bảo quản tốt hơn rồi đóng lại theo lối đục bốn lỗ xuyên dây.[32] Giấy in sách là giấy bản, đã ngả màu, quanh rìa nhất là ở lề bên phải bị mùn nát rách sờn, mất một số chữ.

Bìa sách in to tên sách Đại Việt sử ký toàn thư, cột chữ bên phải là "Vựng lịch triều chi sự tích" nghĩa là "góp nhặt sự tích của các triều đại đã qua". Cột chữ bên trái là "Công vạn thế chi giám hoành nghĩa" là "nêu gương chung công lao của vạn đời". Khung in là khung một đường chỉ (khung đơn), trên khung có chữ "Nội các quan bản" ở giữa hai hình tròn trang trí rồng mây. Sau này, bìa sách còn được đóng thêm dấu hình bầu dục của Paul Demiéville, dấu hình bầu dục của Hội Á Châu và ký hiệu sách PD 2310 (1).[32]

Toàn bộ sách gồm 1231 tờ với 24 quyển, được đóng lại thành 15 tập, ký hiệu từ PD 2310 (1) đến PD 2310 (15). Mỗi tờ in mộc bản khổ 17,5x27,5 cm, khung in khổ 14x20cm; mỗi tờ 2 mặt, mỗi mặt 9 dòng, mỗi dòng khoảng 19 chữ, trừ những tờ đặc biệt như Bài tựa Đại Việt sử ký tục biên của Lê Hy với mỗi mặt 7 dòng, mỗi dòng 13 chữ. Có 5 tờ bị thiếu, trong đó 3 tờ bị mất (tờ 17 quyển 2 phần Ngoại kỷ, tờ 20 quyển 8 và tờ 32 quyển 16 phần Bản kỷ) và 2 tờ thay thế bằng tờ viết tay (tờ 5 quyển một phần Ngoại kỷ và tờ 47 quyển 12 phần Bản kỷ). Trong số 1226 tờ in hiện còn ở Paris, Trần Kinh Hòa thống kê được 69 tờ nét chữ còn sắc (chiếm tỉ lệ 5,6%), chứng tỏ chúng được in từ những ván khắc bổ sung thay thế cho những ván khắc cũ bị thất lạc hay hư hỏng và Nguyễn Tài Cẩn thống kê sơ bộ có khoảng 250 tờ bị mờ (chiếm tỉ lệ 20%), chứng tỏ chúng được dập vào lúc ván khắc bị mòn. Bộ sách tồn tại hai loại khung in, với 828 tờ khung viền hai đường chỉ (khung kép) và 398 tờ khung viền một đường chỉ (khung đơn), trong số 69 tờ khắc bổ sung cũng có 35 tờ khung kép và 34 tờ khung đơn, phân bố không nhất quán. Chẳng hạn như trong quyển thủ, chỉ có tờ bìa và bài Tựa sách Đại Việt sử ký tục biên mang khung đơn còn lại đều là khung kép (trừ tờ 21 có khung đơn mà theo Trần Kinh Hòa là tờ khắc bổ sung). Các quyển 1 - 4 phần Ngoại kỷ, quyển 1, quyển 3 - 4 phần Bản kỷ chỉ có khung kép, còn các quyển khác có cả hai loại khung in.[32]

Xác định niên đại văn bản

Trên cơ sở báo cáo của Phan Huy Lê sau khi sang Pháp trở về năm 1981, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam đã thành lập một Hội đồng khoa học với ông Nguyễn Khánh Toàn làm Chủ tịch, ông Phan Huy LêPhạm Hựu (sau này là Nguyễn Đức Diệu) làm Ủy viên để tổ chức nghiên cứu, giám định niên đại, phiên dịch và xuất bản bộ sách. Năm 1983, tập 1 của Đại Việt sử ký toàn thư bản Nội các quan bản được xuất bản bởi nhà xuất bản Khoa học xã hội[31] và được công bố rộng rãi với tư cách là bản in lần đầu tiên của Đại Việt sử ký toàn thư vào năm Chính Hòa thứ 18, tức là năm 1697. Tuy nhiên, do xuất hiện sự phản đối của một số nhà sử học tiêu biểu là Lê Trọng KhánhBùi Thiết nhằm phủ nhận niên đại 1697 của Nội các quan bản, ngày 16 tháng 4 năm 1988, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức hội thảo để giải quyết vấn đề này. Kết luận dựa theo đa số ý kiến trong cuộc hội thảo tuyên bố rằng "Đại Việt sử ký toàn thư-Nội các quan bản (bản Paris) là bản in gần nhất từ hệ thống ván khắc (mộc bản) năm Chính Hòa 18 (1697) mà chúng ta biết đến hiện nay. Có thể nó đã được in trong khoảng thời gian từ sau 1697, khi bộ ván đã khắc xong và trước khi bộ ván khắc này bị thất lạc vào năm 1800, như sử sách đã ghi".[33]

Các cứ liệu văn bản học và sử liệu học để dẫn tới kết luận trên được Phan Huy Lê trình bày trong bài viết Đại Việt sử ký toàn thư: Tác giả - Văn bản - Tác phẩm,[34] bao gồm:

  • Tờ bìa Nội các quan bản: Phan Huy Lê cho rằng, ngoài những yếu tố mới được thêm vào gần đây như con dấu của P. Demiéville, con dấu của thư viện Hội Á Châu, tờ bìa chứa nhiều yếu tố có ý nghĩa phản ánh niên đại như danh hiệu Nội các quan bản, hai hình tròn trang trí rồng mây và trong chừng mực nào đó là hai câu đối in vào hai bên bìa sách.[32]
  • Phan Huy Lê cho rằng Nội các quan bản nghĩa là ấn bản chính thức của một cơ quan nhà nước mang tên Nội các. Ông kiên quyết bác bỏ khả năng đây là Nội các triều Nguyễn và đi tìm các cứ liệu tản mát trong nhiều tài liệu lịch sử liên quan để chứng minh đây phải là Nội các triều Lê trung hưng. Một đoạn sử liệu trong sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại mệnh lệnh của chúa Trịnh Tạc vào năm Quý Sửu, niên hiệu Dương Đức thứ hai (1673) với nội dung cho văn thần vào Nội các trong phủ chúa để nghị sự. Một thể lệ còn lại ở sách Đại Việt sử ký tục biên quy định ngày các quan vào hầu ở Nội các trong phủ chúa. Một dụ chỉ của chúa Trịnh Cương năm 1720 quy định y phục của quan văn khi vào hầu Nội các.[32] Tham tụng Cao Huy Trạc được trao chức Nội các Đại Học sĩ vào năm 1736[35] và theo Phan Huy Lê, đó là trường hợp một vị quan đứng đầu phủ chúa kiêm chức đứng đầu Nội các. Phan Huy Lê kết luận: dưới thời Lê trung hưng, cơ quan nhà nước mang tên Nội các đã được thành lập và đi vào hoạt động, chậm nhất là từ năm 1673. Đó là cơ quan trực thuộc phủ chúa Trịnh, đứng đầu là Nội các Đại học sĩ cùng với quy định ngày vào hầu chúa và phẩm phục của văn quan khi "nhập các". Và Đại Việt sử ký toàn thư bản in Nội các quan bản là bản in chính thức, mang tính chất nhà nước của Nội các trực thuộc phủ chúa Trịnh này. Tuy nhiên, dù khẳng định sự tồn tại của cơ quan nhà nước Nội các dưới triều Lê trung hưng nhưng Phan Huy Lê không tìm thấy được quyết định thành lập cơ quan này cũng như quy chế hoạt động của nó,[32] ngoài vài dòng sử liệu nằm tản mát trong các tài liệu lịch sử.
  • Về kiểu chữ, Phan Huy Lê cho rằng trên tờ bìa có hai chữ đáng lưu ý. Đó là chữ Việt 越 hơi đá thảo trong tên sách khác với chữ Việt trong sách và chữ sự 事 với nét ngang hơi dài trong khi các chữ sự khác trong sách đều có nét ngang ngay ngắn. Ông đã giải thích hiện tượng trên bằng cách so sánh, đối chiếu với những kiểu chữ có niên đại Lê trung hưng và kết luận rằng tuy hai chữ ở tờ bìa Nội các quan bản có khác với kiểu chữ trong sách và ít dùng ở thời bấy giờ nhưng không trái với niên đại của sách hay mâu thuẫn với niên đại thời Lê trung hưng của văn bản.[32]
  • Về hai hình tròn rồng mây có đường kính 4 cm ở tờ bìa, Phan Huy Lê dẫn ý kiến của nhà nghiên cứu Chu Quang Trứ ở Viện Mỹ thuật Việt Nam, cho rằng chúng mang đặc trưng của nghệ thuật trang trí thời Lê trung hưng (khoảng cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII), khác với nghệ thuật trang trí thời Nguyễn.
  • Về hai câu tán in ở bìa sách, Phan Huy Lê cũng phản bác ý kiến của Bùi Thiết và Lê Trọng Khánh về hai chữ lịch triều 厯朝 trong câu đối hay câu tán in ở bìa sách Nội các quan bản, khi họ lý giải lịch triều nghĩa là "triều đại đã qua" và do đó, Nội các quan bản ghi chép lịch sử đến triều Lê trung hưng thì bản in đó phải có niên đại thuộc về triều đại muộn hơn, tức là triều Nguyễn. Ông chỉ ra trong thư tịch Hán Nôm của Việt Nam và Trung Quốc không thiếu những sách mang tên lịch đại hay lịch triều mà ghi chép những sự việc xảy ra cho đến triều đại và triều vua đang trị vị, như Đại Việt lịch triều đăng khoa lục của Nguyễn Hoãn, Vũ Miên, Phan Lê Phiên; Lịch triều thi sao của Bùi Huy Bích... Hai câu tán đó không phải là tên sách mà chỉ có nội dung biểu thị quan điểm sử học đương thời. Do đó, theo Phan Huy Lê, không ảnh hưởng gì đến niên đại Chính Hoà của bản in Nội các quan bản.[32]
  • Dựa theo kết quả giám định của Trần Kinh Hòa về bản in Đại Việt sử ký toàn thư ở Đại học Thiên Lý – một trong bảy bản Đại Việt sử ký toàn thư hiện hành ở Nhật Bản và được ông Trần xác nhận là in từ mộc bản Chính Hoà - Phan Huy Lê nhận xét rằng Nội các quan bản tốt hơn và đỡ mờ hơn bản Thiên Lý nên phải được in sớm hơn bản này. Nếu con số 5,6% số tờ Nội các quan bản được in từ ván khắc bổ sung mà Trần Kinh Hoà đã thống kê là đúng, thì 94,4% số tờ còn lại được in từ bộ mộc bản Chính Hoà ban đầu và như thế, Phan Huy Lê kết luận: Nội các quan bản là bản in đầy đủ nhất thuộc hệ mộc bản này.[32]
  • Đặc điểm không kiêng huý là một căn cứ quan trọng để Phan Huy Lê kết luận về niên đại văn bản Nội các quan bản. Bản này không kiêng huý các vua Lê cũng như các vua Nguyễn. Trong toàn bộ bản in, chỉ duy nhất có một trường hợp kiêng huý, đó là chữ trừ 除 trong câu "niên thâm trừ dụng" 年深除用 ở tờ 48b Bản kỷ thực lục quyển 14, kiêng tên Lam Quốc công Lê Trừ, anh trai vua Lê Thái Tổ, tiên tổ vua Lê Anh Tông. Phan Huy Lê lý giải đây là trường hợp ngoại lệ, không ảnh hưởng đến đặc điểm chung của văn bản là không kiêng huý. Phan Huy Lê cho biết không kiêng huý là đặc điểm quan trọng của các văn bản dưới thời Lê trung hưng nên Nội các quan bản phải được khắc ở thời kì này chứ không thể ở thời Nguyễn, triều đại thi hành rất chặt chẽ chế độ kị huý trong giai đoạn toàn thịnh của mình. Dưới thời kỳ Pháp thuộc, chế độ kiêng huý của nhà Nguyễn tuy lỏng lẻo hơn, nhưng triều đình đã cho biên soạn và khắc in Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, không có lý do gì cho in lại Đại Việt sử ký toàn thư nữa.[32]
  • Bố cục và cách chia quyển của Nội các quan bản phù hợp với cách chia của nhóm Phạm Công Trứ được nhóm Lê Hy tiếp thu trong Đại Việt sử ký toàn thư in đời Chính Hoà: phần Bản kỷ toàn thư ghi chép lịch sử từ triều vua Đinh Tiên Hoàng đến hết triều vua Lê Thái Tổ, phần Bản kỷ thực lục bắt đầu bằng triều vua Lê Thái Tông trong khi các bản Quốc Tử Giám tàng bản lại có bố cách và cách chia khác.[32]
  • Đối chiếu với Đại Việt sử ký toàn thư Nguyễn Văn Huyên bản và Đại Việt sử ký tiền biên: một số chữ trong Nội các quan bản khắc giống trong khi Quốc Tử giám tàng bản khắc sai so với hai bản trên do tự dạng gần giống. Bản Nguyễn Văn Huyên và Đại Việt sử ký tiền biên có nguồn gốc gần gũi với Đại Việt sử ký toàn thư bản Chính Hoà, nhiều đoạn trong Đại Việt sử ký tiền biên còn bảo lưu gần như nguyên vẹn bản Chính Hoà, do đó, theo Phan Huy Lê, điều này chứng tỏ Nội các quan bản kế thừa trực tiếp bản Nguyễn Văn Huyên và xuất hiện trước Quốc Tử giám tàng bản.[32]

Bố cục

  • Quyển thủ: gồm Bài tựa Đại Việt sử ký tục biên của Lê Hy, Sách Đại Việt sử ký toàn thư của Phạm Công Trứ, Sách Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Biểu dâng sách Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Phàm lệ biên soạn Đại Việt sử ký toàn thư, Mục lục kỷ biên và Việt giám thông khảo tổng luận của Lê Tung.
  • Ngoại kỷ toàn thư: gồm 5 quyển, ghi chép lịch sử từ họ Hồng Bàng năm 2879 TCN đến hết thời kỳ 12 sứ quân năm 967.
  • Bản kỷ: gồm 19 quyển, chia thành Bản kỷ toàn thư 10 quyển, Bản kỷ thực lục 5 quyển, Bản kỷ tục biên 4 quyển, ghi chép lịch sử từ nhà Đinh đến năm 1675 đời vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê.
Nội dung chi tiết của Đại Việt sử ký toàn thư (Nội các quan bản)
Ngoại kỷ
QuyểnKỷNội dungThời gianGhi chú
1Kỷ họ Hồng BàngKinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Vương[36]
Kỷ nhà ThụcAn Dương Vương257–208 TCN[37]
2Kỷ nhà TriệuTriệu Vũ Đế, Triệu Văn Vương, Triệu Minh Vương, Triệu Ai Vương, Triệu Thuật Dương Vương207–111 TCN[38]
3Kỷ thuộc Tây Hán111 TCN–40[39]
Kỷ Trưng Nữ VươngHai Bà Trưng40–43[40]
Kỷ thuộc Đông Hán43–186[41]
Kỷ Sĩ VươngSĩ Nhiếp186–226[42]
4Kỷ thuộc Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương226–540[43]
Kỷ Tiền LýLý Nam Đế544–548[44]
Kỷ Triệu Việt VươngTriệu Việt Vương548–571[45]
Kỷ Hậu LýHậu Lý Nam Đế571–602[46]
5Kỷ thuộc Tùy Đường602–906[47]
Kỷ Nam Bắc phân tranh906–938[48]
Kỷ nhà Ngô12 sứ quânNgô Quyền, Dương Tam Kha, Ngô Xương Văn, Ngô Xương Xí938–968[49]
Bản kỷ
QuyểnKỷNội dungThời gianGhi chú
1Kỷ nhà ĐinhĐinh Tiên Hoàng, Đinh Phế Đế968–980[50]
Kỷ nhà Tiền LêLê Đại Hành, Lê Trung Tông, Lê Ngọa Triều980–1009[51]
2Kỷ nhà LýLý Thái Tổ, Lý Thái Tông1009–1054[52]
3Kỷ nhà Lý (tiếp theo)Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông1054–1138[53]
4Kỷ nhà Lý (tiếp theo)Lý Anh Tông, Lý Cao Tông, Lý Huệ Tông, Lý Chiêu Hoàng1138–1225[54]
5Kỷ nhà TrầnTrần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông1225–1293[55]
6Kỷ nhà Trần (tiếp theo)Trần Anh Tông, Trần Minh Tông1293–1329[56]
7Kỷ nhà Trần (tiếp theo)Trần Hiến Tông, Trần Dụ Tông, Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông1329–1377[57]
8Kỷ nhà Trần (tiếp theo)Trần Phế Đế, Trần Thuận Tông, Trần Thiếu Đế1377–1407[58]
Phụ: Hồ Quý LyHán ThươngHồ Quý Ly, Hồ Hán Thương
9Kỷ nhà Hậu TrầnGiản Định Đế, Trùng Quang Đế1407–1413[59]
Kỷ thuộc Minh1413–1428[60]
10Kỷ nhà Hậu LêLê Thái Tổ1428–1433[61]
Bản kỷ thực lục
QuyểnKỷNội dungThời gianGhi chú
11Kỷ nhà Lê (tiếp theo)Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông1433–1459[62]
12Kỷ nhà Lê (tiếp theo)Lê Thánh Tông (thượng)1459–1472[63]
13Kỷ nhà Lê (tiếp theo)Lê Thánh Tông (hạ)1472–1497[64]
14Kỷ nhà Lê (tiếp theo)Lê Hiến Tông, Lê Túc Tông, Lê Uy Mục1497–1509[65]
15Kỷ nhà Lê (tiếp theo)Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông, Lê Cung Hoàng1509–1533[66]
Phụ: họ MạcMạc Đăng Dung, Mạc Đăng Doanh
Bản kỷ tục biên
QuyểnKỷNội dungThời gianGhi chú
16Kỷ nhà Lê (tiếp theo)Lê Trang Tông, Lê Trung Tông, Lê Anh Tông1533–1573[67]
Phụ: họ MạcMạc Đăng Doanh, Mạc Phúc Hải, Mạc Phúc Nguyên, Mạc Mậu Hợp
17Kỷ nhà Lê (tiếp theo)Lê Thế Tông1573–1599[68]
Phụ: họ MạcMạc Mậu Hợp
18Kỷ nhà Lê (tiếp theo)Lê Kính Tông, Lê Chân Tông, Lê Thần Tông1599–1662[69]
19Kỷ nhà Lê (tiếp theo)Lê Huyền Tông, Lê Gia Tông1662–1675[70]

Giá trị

Việc phát hiện ra Đại Việt sử ký toàn thư bản Nội các quan bản với tư cách là bản in đầu tiên của bộ quốc sử với niên đại Chính Hoà là một sự kiện lớn của giới sử học Việt Nam trong những năm 80 của thế kỷ XX. Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn, trong lời giới thiệu nhân lần xuất bản đầu tiên bản dịch Nội các quan bản, dứt khoát:

Đối với thời kỳ lừng danh như thời Đại Việt, nó là cả một bản anh hùng ca, cái gì có liên quan đến nó, dẫu là một câu, một dòng chữ tự tay nhân vật đã sống hoặc đã chứng kiến những giờ phút huy hoàng viết ra, mà ta được đọc hay được nghe, đều là tiếng nói thân thiết từ ngàn xưa vọng lại, làm rung động tâm hồn của chúng ta biết bao.

Cho nên, việc đáng mừng là chúng ta đã tìm lại được bản in xưa nhất của bộ "Đại Việt sử ký toàn thư". Đó là bản in theo ván khắc năm Chính Hoà thứ 18, tức năm 1697, mà trước đây tưởng như không hy vọng tìm thấy. Còn những bản in chúng ta vẫn thường dùng là những bản in sau đó, vào đời Nguyễn.[71]

— Nguyễn Khánh Toàn

Giá trị của Nội các quan bản tiếp tục được Phan Huy Lê khẳng định trong nhiều bài khảo cứu văn bản này Đại Việt sử ký toàn thư: Tác giả - Văn bản - Tác phẩm rằng:

Nhưng ngày nay, chúng ta đã có nguyên bản Chính Hoà thì việc nghiên cứu các văn bản sau đó chỉ còn có ý nghĩa làm sáng tỏ lịch sử các truyền bản, khẳng định giá trị văn bản học của bản gốc và xác lập cơ sở khoa học để bổ sung những tờ thiếu của nguyên bản.[72]
— Phan Huy Lê - 1983
Bản Chính Hoà [...] có giá trị đặc biệt về mặt lịch sử và văn bản mà không một bản nào khác có thể thay thế được, khi nghiên cứu và sử dụng bộ "Đại Việt sử ký toàn thư". Vì vậy, việc công bố văn bản Chính Hoà và bản dịch tiếng Việt dựa theo văn bản đó là rất cần thiết và có ý nghĩa khoa học trên nhiều lĩnh vực.
— Phan Huy Lê - 2009

Bên cạnh đó, cũng có ý kiến của Bùi Thiết và Lê Trọng Khánh phản đối niên đại Chính Hoà của Nội các quan bản, đánh giá nó là "của giả", "vô giá trị"...[73]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đại_Việt_sử_ký_toàn_thư http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvs... http://vietnamhistory.info/index.php?option=com_do... http://www.nomfoundation.org/Conf2006/3_vande_vanb... http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Van-hoa/534415/dai-... http://hannom.nlv.gov.vn/hannom/cgi-bin/hannom?a=d... http://hannom.nlv.gov.vn/hannom/cgi-bin/hannom?a=d... http://bachkhoatoanthu.vass.gov.vn/noidung/tudien/... http://bachkhoatoanthu.vass.gov.vn/noidung/tudien/... http://bachkhoatoanthu.vass.gov.vn/noidung/tudien/... http://bachkhoatoanthu.vass.gov.vn/noidung/tudien/...